Định nghĩa / Ý nghĩa

Thành ngữ (idiom) double-cross (gạch đôi) nghĩa là lừa dối hoặc phản bội một người mà đúng ra ta phải hợp tác với họ.

Doublecrossdouble cross chỉ đơn giản là những cách viết khác của thành ngữ double-cross.

Thành ngữ double-cross có thể được dùng như một danh từ (noun) hay một động từ (verb).

Nguồn gốc / Xuất xứ

Thành ngữ double-cross xuất hiện từ khoảng cuối thế kỷ XVIII. Ý nghĩa của thành ngữ double cross xuất pháp từ hai thành phần: doublecross. Cả hai thành phầm đều mang ý nghĩa lừa đảo.

Từ khoảng giữa thế kỷ XVIII, danh từ cross đã được dùng để chỉ những hành động hoặc giao dịch mang tính chất lừa đảo, không công bằng hay trung thực. Theo nghĩa này, danh từ cross thường được dùng phổ biến nhất trong ngữ cảnh thể thao; một trận đấu thể thao được gọi là cross khi hai bên (hay các bên) đội tuyển thi đấu dàn xếp kết quả trước trận đấu, cố tình làm cho một đội tuyển cụ thể nào đó thua, thường là để thu lợi tài chính từ tiền khán giả cá cược.

Double ở đây không chỉ đơn giản nghĩa là hai lần hay gấp đôi (mặc dù đây là những nghĩa gốc và cũng là những nghĩa phổ biến nhất). Động từ double nghĩa là hành động một cách lừa lọc, dối trá, thường là bằng cách đưa ra những thay đổi, những hành động, bước đi mà không ai lường trước được. Một cách để nhớ nghĩa này của động từ cross là hãy liên tưởng đến cách nói đòn xóc hai đầu trong tiếng Việt. Một cách khác? Hãy tưởng tượng bạn đang chạy xe theo sau đuôi một chiếc khác. Chiếc xe này quay đầu lại, đi ngược hướng với bạn và qua mặt bạn, lọt ra khỏi tầm quan sát của bạn. Tất cả những gì bạn thấy, và biết, là chiếc xe đó đã quay đầu một lần, đi ngược hướng với bạn, và đã bỏ xa bạn. Nhưng, chiếc xe đó, sau khi qua mặt bạn, lại quay đầu một lần nữa (lần thứ hai, hay double) để bám đuôi bạn, trong khi bạn hoàn toàn không hề biết mình đang bị bám đuôi.

Cả doublecross đều có nghĩa là lừa dối. Vậy, cách nói double-cross có phải là thừa thải? Đúng là vậy, nhưng cách nói lặp lại, thừa thải (tautology) bản thân nó là một công cụ ngôn ngữ hữu dụng và phổ biến với những chức năng đặc trưng của nó. Ngay trong tiếng Việt, ta cũng có những từ ghép đẳng lập với hiệu ứng diễn đạt tương tự: bạn bè, tàu thuyền, cây cỏ, ẩm ướt, bụng dạ, yêu thương, xinh đẹp, tươi tốt, tiền bạc, thiếu thốn, v.v.

Ví dụ và biến thể cách dùng như thế nào

  • Jallion quit her job today. She couldn’t stand all the double-crosses anymore. She trusted her colleagues in crime, she thought they would be faithful to her, but she was too naive. She couldn’t stand all the backstabbing anymore. (Jallion nghỉ việc của cô hôm nay. Cô không thể chịu đựng những gạch đôi thêm chút nào nữa. Cô đã tin tưởng những đồng nghiệp đồng bọn của cô, cô tưởng họ sẽ trung thành với cô, nhưng cô đã quá ngây thơ. Cô không thể chịu đựng được những sự đâm sau lưng nữa.)
  • I trusted you, but you were the one telling Mom on me. And you took all the money, I didn’t get to keep any. I know you did. Admit it, stop lying! This is the last time you will ever double-cross me. I will never do anything for you ever again. (Chị đã tin em, nhưng em là người mách Mẹ về chị. Và em đã lấy hết tiền, chị không giữ được gì hết. Chị biết em đã làm vậy. Thú nhận đi, đừng nói láo nữa! Đây là lần cuối cùng em sẽ bao giờ gạch đôi chị. Chị sẽ không bao giờ làm bất cứ thứ gì cho em bao giờ nữa.)
  • The novel is a story about a young thug who colludes with his ex-prison partners to kidnap a little girl who has all the information of their past lives. The goal is to kill the girl before she has enough time to distribute what she knows on the Internet. The young fella, having been in prison for so long, still hasn’t learned his lesson, however. He thinks that he is part of the gang. He even feels proud about it. He feels a sense of belonging for the first time in his life, growing up as an orphan. All those feelings blind him from the fact that he is just a tool to them. After killing the girl, he is the next person who should be taken care of, because he is the remaining person who knows everything about them. Unsurprisingly, one of his ‘bros’ double-crosses him and hands him to the police. He later receives the death sentence. (Cuốn tiểu thuyết là một câu chuyện về một tên côn đồ, người cấu kết thông đồng với những bạn tù cũ của hắn để bắt cóc một cô ấy nhỏ, người có tất cả thông tin về cuộc đời trong quá khứ của họ. Mục tiêu là giết cô gái đó trước khi cô có đủ thời gian để phát tán những gì cô biết trên mạng Internet. Anh bạn trẻ, đã ở trong tù quá lâu, vẫn chưa học được bài học của hắn, mặc dù vậy. Hắn nghĩ rằng hắn là một phần của băng đảng. Hắn thậm chí còn cảm thấy hãnh diện về điều đó. Hắn cảm thấy một cảm giác gắn bó lần đầu tiên trong đời hắn, lớn lên là một trẻ mồ côi. Tất cả những cảm giác đó làm hắn mờ mắt về thực tế rằng hắn chỉ là một công cụ đối với chúng. Sau khi giết cô gái, hắn là người kế tiếp phải được lo liệu, bởi vì hắn là người còn lại biết mọi thứ về chúng. Không có gì ngạc nhiên, một trong ‘những anh em’ của hắn gạch đôi hắn và giao hắn cho cảnh sát. Hắn sau đó nhận án tử hình.)
  • Laurent wasn’t expecting to be double-crossed at all. She treated Mike fair and square. Although she knew that what they were doing wasn’t honest, she tried her best to make sure there wasn’t any misunderstanding or miscommunication between them. She did not want to make Mike suspicious of her. Maybe she should’ve been suspicious of him instead. (Laurent đã hoàn toàn không liệu trước sẽ bị gạch đôi. Cô đã đối xử với Mike công bằng. Mặc dù cô biết rằng điều họ đang làm là không trung thực, cô đã cố gắng tốt nhất có thể để đảm bảo rằng không có sự hiểm lầm hay sự truyền đạt thông tin sai lệch nào giữa họ. Cô không muốn làm Mike nghi ngờ cô. Có lẽ cô, thay vào đó, đã phải nghi ngờ anh.)
  • Macy talks her younger sister into creating false evidence, so that she and the sister can receive 100% of the inheritance from their father, who recently died. Because there wasn’t a will, everything is expected to go well. Everything does end up going well; with the fabricated evidence, the sister manages to trick everyone, including the family’s lawyer, into believing that their dad left all the money to them. The story doesn’t end there, though; that would be too simple and easy, which life never is. Other than loyalty, the reason that Macy’s sister agreed to help her was so that they could split the money 50/50. But why would Macy let that happen if she could do something about it? So, after everything has been said and done, Macy doublecrosses her sister, telling everyone in the family that the pieces of evidence her sister presented to them are all fake, that the inheritance money in fact belongs to her only, not to her and the sister together. Not only that, Macy tells them that she feels bad for taking all the money, and proposes to share a bit of it with them. No one believes the poor little sister when she explains later that Macy was the one lying to them. Worse, they are in the process of filing a lawsuit against the little sister. (Macy dụ dỗ em gái của cô tạo bằng chứng giả, để cô và người em có thể nhận 100% khoản thừa kế từ cha họ, người vừa mới qua đời. Bởi vì không có một di chúc nào, mọi thứ được kỳ vọng sẽ diễn ra suôn sẻ. Mọi thứ thực sự đã diễn ra suôn sẻ; với chứng cứ ngụy tạo, người em gái thành công trong việc lừa mọi người, bao gồm luật sư của gia đình, tin rằng cha của họ đã để tất cả tiền cho họ. Câu chuyện không dừng lại ở đó, tuy vậy; đó sẽ là quá đơn giản và dễ dàng, điều không bao giờ xảy ra trong cuộc sống. Ngoài sự trung thành, lý do mà em gái của Macy nhận lời giúp cô là để họ có thể chia số tiền 50/50. Nhưng vì sao Macy lại để việc đó xảy ra nếu cô có thể làm gì về nó? Vậy nên, sau khi mọi việc đã được thực hiện xong xuôi ổn thỏa, Macy gạch đôi em gái cô, nói với mọi người trong gia đình rằng tất cả những mảnh bằng chứng em gái cô xuất trình cho họ đều là giả mạo, rằng số tiền thừa kế thực ra thuộc về chỉ một mình cô, không phải chung cho cô và em cô. Không chỉ vậy, Macy còn nói với họ rằng cô cảm thấy tệ vì lấy hết tiền, và đề nghị chia một chút số đó với họ. Không ai tin người em gái nhỏ tội nghiệp khi cô giải thích sau đó rằng Macy mới là người nói dối họ. Tệ hơn, họ đang trong quá trình khởi kiện cô em gái nhỏ.)
  • There’s a demographic among opportunists who are very likely to doublecross. You do not want to hang out with them, and you cannot trust them ever. But what’s worse is that they not only do bad to others but also to themselves, and they cannot see that, because their vision is too short-term and the decisions they make are too often made in haste. They don’t understand that once they doublecross a person, that person now knows their true face and also will probably tell others on them. (Có một nhóm đối tượng giữa những người cơ hội rất có khả năng gạch đôi. Bạn không muốn giao du với họ, và bạn không bao giờ có thể tin họ. Nhưng điều tệ hơn nữa là họ không chỉ làm điều xấu đối với người khác mà còn đối với bản thân họ, và họ không thể thấy điều đó, bởi vì tầm nhìn của họ quá ngắn hạn và những quyết định họ đưa ra quá thường xuyên được đưa ra trong sự vội vã. Họ không hiểu rằng một khi họ gạch đôi một người, người đó giờ đây biết bộ mặt thật của họ và còn có thể sẽ mách những người khác về họ.)
  • John had thought his colleague Mack was a loyal person, but it turned out that he couldn’t have been more wrong. The moment Mack got what he wanted, he double crossed John in the most unpredictable way one could have imagined. Mack was very good at hiding his true self. Mack got promoted, and John is now jobless. (John đã nghĩ đồng nghiệp Mack của anh là một người trung thành, nhưng hóa ra anh đã không thể sai hơn. Thời điểm Mack có thứ anh muốn, anh gạch đôi John theo cách khó dự báo được nhất mà một người có thể tưởng tượng ra. Mack rất giỏi che giấu bản thân thực sự của anh. Mack được thăng chức, và John giờ đây đang thất nghiệp.)
  • Today was the first time I learned to double-cross someone. It wasn’t easy at all. For the first time in my life, I felt so cruel and selfish. I let them down, I betrayed them, and I also betrayed my integrity. (Hôm nay là lần đầu tiên tôi học gạch đôi một ai đó. Nó hoàn toàn không dễ dàng chút nào. Lần đầu tiên trong đời tôi, tôi cảm thấy thật ác độc và ích kỷ. Tôi đã làm họ thất vọng, tôi phản bội họ, và tôi cũng phản bội sự liêm chính của mình nữa.)
  • Jack resents his friend for everything she has done to him. He has been the victim of the many double crosses that she has pulled on him, and if he is tricked one more time by her, it will be completely in his expectation. Yet, he cannot let her go, because he loves her so much. Too much. Yes, she is not just a friend, and she knows that clandestinely, which is the reason why she keeps taking advantage of him time and time again at his expense alone. (Jack phẫn uất bạn anh ta vì mọi thứ cô đã làm anh. Anh đã là nạn nhân của nhiều vụ gạch đôi mà cô đã làm với anh, và nếu anh bị cô lừa một lần nữa, đó sẽ hoàn toàn nằm trong sự tiên lượng của anh. Tuy nhiên, anh không thể để cô đi, bởi vì anh yêu cô thật nhiều. Quá nhiều. Đúng, cô không chỉ là một người bạn, và cô thầm kín biết điều đó, đó là lý do vì sao cô tiếp tục lợi dụng anh lần nữa và lần nữa ở cái giá mà anh phải trả một mình.)
  • It was the doublecross that they deserved. They started all this. They wanted to cheat the procedure in order to save a tiny bit of time and money. They got themselves into this. (Đó là cái gạch đôi mà họ đáng phải chịu. Họ bắt đầu tất cả những điều này. Họ muốn gian lận quy trình nhằm tiết kiệm một chút xíu thời gian và tiền bạc. Họ tự đặt bản thân họ vào chuyện này.)
  • Harley was supposed to cooperate with the gang, but at the last minute, she stole the diamond and disappeared. Not only that, she told the police their location. The gang couldn’t believe she would double-cross them, after what they had done for her. For Harley, it was just a matter of business. (Harley đáng lẽ ra phải hợp tác với bang nhóm, nhưng vào phút cuối, cô ăn cắp viên kim cương và biến mất. Không chỉ vậy, cô còn báo cảnh sát địa điểm của họ. Băng đảng không thể tin cô sẽ gạch đôi họ, sau những gì họ đã làm cho cô. Đối với Harley, đó chỉ là vấn đề làm ăn.)
  • When I left the company, I felt really sad. However, I also felt relieved, because I was so over with all the doublecrosses that people pulled on each other there. It was supposed to be teamwork, or collusion, however you want to put it, but it turned out that everyone was for themself and themself alone. You stab a common target together, then once that’s taken care of, you stab each other for survival. It was a very toxic environment. (Khi tôi rời công ty, tôi cảm thấy rất buồn. Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy được thư thả, bởi vì tôi đã không còn muốn dính líu gì với những cái gạch đôi mà người ta làm lẫn nhau. Đó đáng lẽ ra là hoạt động nhóm, hay sự thông đồng, bạn muốn gọi nó như thế nào tùy bạn, nhưng hóa ra là mọi người chỉ vì bản thân họ và bản thân họ một mình. Bạn đâm một mục tiêu chung cùng nhau, sau đó một khi việc đó đã được lo liệu, bạn đâm lẫn nhau vì sự sinh tồn. Đó là một môi trường rất độc hại.)

  • I’ve been trying to warn him that she’s not an honest person. Once they sign the contract, she’ll double cross him. I’m sure that’s what’s going to happen. She’s a very sly person. You should never trust her. (Tôi đang cố gắng cảnh báo anh ta rằng cô ta không phải là một người thật thà. Một khi họ ký kết hợp đồng xong, cô sẽ gạch đôi anh. Tôi chắc chắn đó là điều sẽ xảy ra. Cô ta là một người rất ma mãnh, quỷ quyệt. Bạn không bao giờ được tin tưởng cô ta.)
  • Double crossing his buddy wasn’t something Hick wanted to do at all, but if he didn’t do it, people would find out that he was also guilty. It was a pawn sacrifice that he had to make. (Gạch đôi  bạn anh ta hoàn toàn không phải là một điều gì mà Hick muốn làm cả, nhưng nếu anh không làm vậy, người ta sẽ phát hiện ra rằng anh cũng phạm tội. Đó là một cuộc thí chốt mà anh phải làm.)
  • Julie asked her younger sister Jill to help her separate her crush Josh and his then-girlfriend Janeth. The plan was to set Janeth up in order to expose her of cheating on Josh, so that Josh would break up with her, and Julie would then finally have a chance to confess her feelings for him. Little did she know that Jill had been secretly falling in love with Josh too. Not just a silly, puppy-love kind of crush, but one that was head over heels, deep and hard! So when Janeth finally got exposed and the couple broke up, Julie wasn’t prepared for what was to come: she got doublecrossed. Before she had a chance to do anything, Jill already got a date with Josh. The result of the date? They’re going to tie the knot next month. (Julie nhờ em gái Jill của cô giúp cô chia rẽ người cô thầm thương trộm nhớ Josh và bạn gái lúc đó của anh ta, Janeth. Kế hoạch là gài bẫy sắp đặt Janeth để lật tẩy cô ta về việc lừa dối Josh, để Josh chia tay với cô, và Julie khi đó cuối cùng sẽ có cơ hội để thổ lộ những cảm giác của cô dành cho anh. Cô nào có biết rằng Jill cũng đã thầm kím phải lòng Josh. Không chỉ là loại tình cảm thầm thương tầm phào, ngớ ngẩn, loại tình yêu cún con, mà là loại điên đảo, sâu đậm và mạnh mẽ! Vậy nên khi Janeth cuối cùng bị lật tẩy và cặp đôi chia tay, Julie đã không chuẩn bị cho điều sắp diễn ra: cô bị gạch đôi. Trước khi cô có cơ hội làm gì, Jill đã có được một buổi hẹn hò với Josh. Kết quả của buổi hẹn? Họ sẽ kết hôn vào tháng tới.)
  • Sam tells his little brother to steal the Pokemon card collection of their cousin Dork. He says he will help him watch the door for their parents while the brother sneaks into Dork’s bedroom to snatch it. When their parents find out, he double crosses the brother and says that he was the one walking into the room and catching him doing it. He is rewarded with the new Playstation, while his brother is grounded for a whole month. (Sam bảo em trai nó ăn cắp bộ sưu tập thẻ bài Pokemon của người anh họ Dork của chúng. Nó nói nó sẽ giúp đứa em canh cửa đề phòng cha mẹ chúng trong khi đứa em lẻn vào phòng ngủ của Dork để đánh cắp bộ sưu tập đó. Khi cha mẹ chúng phát hiện ra, nó gạch đôi đứa em và nói rằng nó là đứa đi vào phòng và bắt quả tang đứa em đang làm điều đó. Nó được thưởng máy chơi Playstation mới, còn đứa em bị phạt trong suốt một tháng.)
  • Double-crossing a person, any person, is a very bad idea, unless you know absolutely for sure you won’t need their help in the future. To double-cross a person means to burn bridges with them. Just because you can betray them for immediate benefits doesn’t mean you should do it, because one day they can take revenge without you realizing before it is too late. (Gạch đôi một người, bất kỳ người nào, là một ý tưởng rất tồi, trừ phi bạn biết chắc chắn hoàn toàn bạn sẽ không cần sự giúp đỡ của họ trong tương lai. Gạch đôi một người nghĩa là cắt đứt quan hệ với họ. Chỉ vì bạn có thể phản bội họ vì những lợi ích tức thời không có nghĩa là bạn nên làm vậy, bởi vì một ngày nào đó họ có thể trả thù bạn mà bạn không nhận ra trước khi quá trễ.)

  • Tony had really admired the mafia group in his hometown. He had always thought of them as a gang of heroes, real-life Robinhood kind of heroes who defended the poor and unfortunate. When the gang asked if he wanted to join them on their mission to rob the bank, he accepted the offer in a snap of a finger. He was super useful to them, and loyal too, but as you all may guess, he got doublecrossed the moment they no longer needed him. The gang moved on with their next mission, while Tony was sent behind bars. He’s still there, actually. (Tony đã thực sự ngưỡng mộ nhóm mafia ở thành phố quê nhà anh. Anh đã luôn luôn nghĩ về chúng như một băng đảng của những anh hùng, loại những anh hùng Robinhood trong đời thực bảo vệ người nghèo và kém may mắn. Khi băng đảng hỏi liệu anh có muốn gia nhập họ trong sứ mệnh ăn cướp ngân hàng của họ không, anh đã nhận lời đề nghị chỉ trong một cái búng ngón tay. Anh đã vô cùng hữu dụng đối với họ, và trung thành nữa, nhưng như tất cả các bạn có thể đoán ra, anh đã bị gạch đôi vào thời điểm họ không còn cần anh nữa. Băng đảng tiếp tục sứ mệnh kế tiếp của họ, trong khi Tony bị ngồi tù. Thực ra thì anh ta vẫn ở đó.)
  • Misty was going to pull a double cross on Ash and bail, but she hesitated. She couldn’t help but think of his situation. He committed the crime because he didn’t have any other choice. He had no other people to rely on, he didn’t have education, nor any skills that he could use to put food on his table. He did bad things, but he wasn’t a bad person. (Misty sắp làm một pha gạch đôi Ash và chuồn, nhưng cô chùn bước. Cô không thể không nghĩ đến tình huống của anh. Anh phạm tội bởi vì anh không còn lựa chọn nào khác. Anh không có người nào khác để nương tựa, anh không được học hành, cũng không có những kỹ năng có thể giúp anh kiếm ăn. Anh làm những điều xấu, nhưng anh không phải là người xấu.)
  • Just when he began to think of doublecrossing me, he realized that that was a very bad idea. He had been leaving so many pieces of evidence that if the police caught what we were doing on radar, they would soon be able to trace and track his identity and location. Every step he took shouldn’t have been taken without caution, including revealing my identity to the police. (Nhanh chóng ngay khi anh ta bắt đầu nghĩ đến việc gạch đôi tôi, anh nhận ra rằng đó là một ý tưởng rất tồi. Anh đã để lại quá nhiều mảnh bằng chứng, tới nỗi nếu cảnh sát đánh hơi được điều chúng tôi đang làm, họ sẽ nhanh chóng có thể truy vết và theo dõi danh tính và địa điểm của anh. Mỗi bước anh đi không nên được đi mà không có kèm sự thận trọng, bao gồm tiết lộ danh tính của tôi với cảnh sát.)

Vậy là hết bài!

Bạn còn điều gì thắc mắc về bài học? Điều gì về tiếng Anh đang làm bạn trằn trọc, ăn không ngon, ngủ không yên? Hay đơn giản là bạn chỉ muốn say “Hi!”? Hãy để lại lời bình luận bên dưới hay gửi email về địa chỉ contact.engbits@gmail.com nhé!


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *