Nồng nhiệt, thân thiện. Gian xảo, thủ đoạn. Lòng người chưa bao giờ dễ đoán. Ai trong chúng ta khi trưởng thành bước vào đời cũng không ít lần nghe qua lời dặn của các bậc đi trước về thái độ cẩn trọng mà ta cần có trước khi tin tưởng một ai.

Nhưng nói thì dễ, làm mới khó. Bị đắm chìm trong những lời mật ngọt, những ánh mắt thân thiện, những nụ cười niềm nở, ta dần hạ rào cản bảo vệ của bản thân và cho người lạ vào vùng an toàn của chúng ta. Khi ta ít đề phòng nhất là khi ta dễ bị tổn thương nhất.

Trong phút sa ngã, ta cần lắm một cảnh tỉnh để kéo ta về với thực tại, để nhận ra tâm địa của nanh sói dữ mà con mồi không ai khác là chính bản thân chúng ta.

Trong tiếng Anh, để cảnh tỉnh ai về một con quỷ dữ trong vỏ bọc thiên thần, ta có thể dùng thành ngữ (idiom) a wolf in sheep’s clothing. Ví dụ:

  • That’s a wolf in sheep’s clothing. You don’t want to get close to him.
    (Đó là một con sói trong lốt cừu. Bạn không muốn đến gần anh ta đâu.)

Định nghĩa

Thành ngữ a wolf in sheep’s clothing không quá khó hiểu. Theo nghĩa đen, nó có thể được dịch là một con sói trong quần áo của cừu, hoặc bạn cũng có thể dịch là một con sói đội lốt cừu, vì thực ra thì cừu có bao giờ mặc quần áo đâu.

Mượn hai hình ảnh ẩn dụ (metaphor) con sói (wolf) và con cừu (sheep), thành ngữ muốn nói đến hai nhóm người trong cuộc sống về tính cách. Sói đại diện cho những thành phần trong xã hội với hành vi đầy mưu mẹo, toan tính, thủ đoạn, và trên tất cả là độc ác; mục đích của chúng là làm lợi cho bản thân, và chúng làm mọi giá để đạt được điều này. Cừu đại diện cho những cá thể tốt bụng, đáng yêu, dễ gần, tâm hồn trong sáng và có thể là ngây thơ nữa. Mượn tiếp hình ảnh ẩn dụ thứ ba là quần áo (clothing), thành ngữ muốn nói đến hành động che giấu, ẩn nấp, cải trang, trá hình mà những con sói trong xã hội rất thường làm để đánh lừa người khác trong hình hài của những con cừu.

Thành ngữ thường được dùng như một lời cảnh tỉnh về những kẻ gian ác giả dạng hiền từ trong xã hội, thân thiện, nhưng nguy hiểm.

Ngữ cảnh – cách dùng

Với những hình ảnh ẩn dụ và cách nói liên tưởng, thành ngữ a wolf in sheep’s clothing phù hợp với những ngữ cảnh ít đòi hỏi tính trang trọng (informal register). Bạn có thể sử dụng thành ngữ này trong cả văn nói (spoken) và văn viết (written). Tuy vậy, nếu đọc những văn bản như sách, báo, lời thoại phim tài liệu, bạn cũng đâu đó bắt gặp sự hiện diện của thành ngữ này. Thành ngữ đã và đang dần dần được chấp nhận trong những ngữ cảnh trang trọng (formal register). Vậy nên bạn cũng không cần phải quá dè dặt trong việc sử dụng nó. Nếu muốn cẩn thận thì đừng dùng, nhưng nếu thấy tình huống thích hợp thì biết đâu nó sẽ giúp bạn được một điểm cộng về cách diễn đạt.

Về mặt ngữ pháp, thành ngữ a wolf in sheep’s clothing là một cụm danh từ (noun phrase) với cụm danh từ a wolf đóng vai trò chính và cụm giới từ (prepositional prhase) in sheep’s clothing bổ sung thêm thông tin. Sở dĩ chúng ta gọi a wolf là một cụm danh từ vì, ngoài danh từ (noun) wolf, ta còn có mạo từ (article) a. Còn về cụm giới từ in sheep’s clothing, bạn có nhận thấy điểm gì đặc biệt về nó không? Nó thực ra là một mệnh đề quan hệ được rút gọn (reduced relative clause). Nếu viết đầy đủ, ta sẽ có mệnh đề that is in sheep’s clothing (hoặc which is in sheep’s clothing), và thành ngữ sẽ trở thành:

     a wolf that/which is in sheep’s clothing

Đây là một dạng mệnh đề quan hệ xác định (restrictive relative clause, hay còn được gọi là defining relative clause). Có hai dấu hiệu để ta nhận biết điều này. Thứ nhất, về cách diễn đạt, trước đại từ quan hệ (relative pronoun) that (hoặc which) không có dấu phẩy. Thứ hai, về nghĩa, khi chỉ nói a wolf mà không cung cấp thông tin gì thêm, ta không thể xác định rõ một con sói cụ thể nào, và vì vậy, mục đích sử dụng thành ngữ để nói về một chủ thể cụ thể đang cải trang nào đó bị vô hiệu hóa.

Nếu bạn nào thích đào sâu hơn một chút vào cụm giới từ in sheep’s clothing thì sẽ xác định được giới từ (preposition) chủ chốt là in và cụm danh từ sheep’s clothing bổ nghĩa cho giới từ này. Cụm danh từ sheep’s clothing bao gồm danh từ sheep được sử dụng ở dạng sở hữu cách (possessive form) để bổ nghĩa cho danh từ chính là clothing. Thay vì dùng sở hữu cách, bạn cũng có thể diễn dãi cụm danh từ này một cách hơi dài dòng hơn một chút với giới từ of, cụ thể: the clothing of sheep. Lúc này, cụm giới từ ban đầu trong thành ngữ của bạn sẽ trở thành in the clothing of sheep. (Chúng ta sẽ có dịp bàn về đề tài này một lần nữa ở phía cuối bài học.)

Bạn có thể dùng cụm danh từ a wolf in sheep’s clothing ở đâu? Ở bất cứ vị trí nào trong câu phù hợp cho một danh từ thông thường. Bạn có thể sử dụng nó làm chủ ngữ, ví dụ:

  • A wolf in sheep’s clothing is a dangerous creature.
    (Một con sói đội lốt cừu là một sinh vật nguy hiểm.)

Bạn cũng có thể sử dụng nó như một tân ngữ, như cách ta sử dụng nó trong ví dụ sau để bổ nghĩa cho động từ (verb) become:

  • He has become a wolf in sheep’s clothing.
    (Anh ta đã trở thành một con sói đội lốt cừu.)

Bạn cũng có thể sử dụng thành ngữ như một phần của danh từ kép (compound noun), ví dụ:

  • The “a wolf in sheep’s clothing” concept is clearly illustrated by this character.
    (Khái niệm “con sói đội lốt cừu” được minh họa rõ bởi nhân vật này.)

Trên đây chỉ là vài cách để sử dụng thành ngữ thôi. Bạn có thể biến hóa nó bằng vô số những cách khác, miễn là tính chất cụm danh từ của nó được giữ nguyên.

Nguồn gốc

Thành ngữ a wolf in sheep’s clothing xuất thân từ Kinh Thánh (Bible). Năm 1611, Vua James Đệ nhất của Anh Quốc (King James I of England, lúc trước là Vua James Đệ tứ của nước Scotland (King James IV of Scotland)) cho ban hành bản Kinh Thánh King James được ủy quyền (Authorised King James Version, hay còn được gọi là King James Bible, hay ngắn gọn là Authorised Version). Tuy không phải là phiên bản Kinh Thánh được dịch sang tiếng Anh lần đầu tiên, King James Bible được xem là một trong những tư liệu chữ viết có ảnh lớn nhất đến ngôn ngữ, tín ngưỡng và văn hóa của các cộng đồng nói tiếng Anh ngày nay. Theo câu (verse) 15, chương (chapter) 7 trong Phúc âm Matthew (Gospel of Matthew) (gọi tắt là Matthew 7:15) trong phiên bản Kinh Thánh King James, con người phải đề phòng những nhà tiên tri giả mạo (false prophet), cụ thể:

     Beware of false prophets, which come to you in sheep’s clothing, but inwardly they are ravening wolves.
     (Hãy thận trọng đối với những tiên tri giả, những kẻ đến với các con trong lốt chiên (cừu), nhưng bên trong chúng là những con sói đói meo săn mồi.)

Không phải đến thời Kinh Thánh được dịch sang tiếng Anh hiện đại (Mordern English) thì khái niệm của thành ngữ a wolf in sheep’s clothing mới được giới thiệu vào ngôn ngữ Anh. Trong Kinh Thánh của Wycliffe (Wycliffe’s Bible), bản dịch Kinh Thánh từ tiếng Latin sang tiếng Anh trung đại (Middle English) được thực hiện dưới sự chỉ đạo của nhà dịch thuật John Wycliffe trong giai đoạn khoảng từ năm 1382 đến năm 1395, ta có thể tìm thấy một phiên bản có cùng nội dung với lời dạy Matthew 7:15 được trích bên trên:

     Be ye war of fals prophetis, that comen to you in clothing is of scheep, but withynneforth thei ben as wolues of raueyn.

Nếu lời dạy trên được dịch từ Kinh Thánh tiếng Latin, có thể nào câu thành ngữ có xuất xứ từ tiếng Latin? Có thể, nhưng ta chưa tìm được bằng chứng nào để kết luận điều này. Trong tiếng Latin có tồn tại một tục ngữ (proverb) với nội dung tương tự, nhưng, vì ta không biết nó ra đời khi nào, ta không thể kết luận rằng các phiên bản tiếng Anh bắt nguồn từ phiên bản tiếng Latin này, hay ngược lại:

     Pelle sub agnina latitat mens saepe lupina
     (Tạm dịch sang tiếng Anh: Under a sheep’s skin often hides a wolfish mind …
     … và sang tiếng Việt: Dưới da của một con cừu thường ẩn dấu một tâm trí chó sói.)

Hãy đi một bước xa hơn về quá khứ. Thành ngữ a wolf in sheep’s clothing, trong hình hài ngôn ngữ, xuất thân từ Kinh Thánh; kết luận này khá thuyết phục sau khi xem xét những dẫn chứng kể trên. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng khái niệm của thành ngữ nói riêng, cũng như nhiều lời dạy trong Kinh Thánh nói chung, có thể đã được góp nhặt và lấy cảm hứng từ những nguồn khác tồn tại từ trước đó nữa. Đơn cử trường hợp của thành ngữ, vào thế kỷ XII, nhà tu từ học (rhetorician) người Hy Lạp (Greek) Nikephoros Basilakis đã kể câu chuyện ngụ ngôn (fable) về một con sói tự mình cải trang trong lớp da cừu trong chuỗi bài tập tu từ (rhetorical exercises) với tên gọi Progymnasmata (theo tiếng Hy Lạp: προγυμνάσματα). Truyện kể như sau:

     A wolf once decided to change his nature by changing his appearance, and thus get plenty to eat. He put on a sheepskin and accompanied the flock to the pasture. The shepherd was fooled by the disguise. When night fell, the shepherd shut up the wolf in the fold with the rest of the sheep and as the fence was placed across the entrance, the sheepfold was securely closed off. But when the shepherd wanted a sheep for his supper, he took his knife and killed the wolf.
     (Một gã chó sói có lần đã quyết định thay đổi bản chất của hắn bằng cách thay đổi ngoại hình của hắn. Gã đội lên mình một lớp da cừu và theo đàn đến đồng cỏ. Người chăn cừu đã bị đánh lừa bởi sự cải trang này. Khi màn đêm buông xuống, người chăn cừu nhốt gã sói trong chuồng cùng với những con cừu còn lại và vì hàng rào được đặt ngay đối diện cổng vào, chuồng cừu đã bị phong tỏa một cách an toàn. Nhưng khi người chăn cừu muốn một con cừu cho bữa tối của mình, ông đã lấy dao và giết gã chó sói.)

Có thực sự khái niệm của thành ngữ, và cả lời dạy trong Kinh Thánh nữa, được lấy cảm hứng từ câu chuyện ngụ ngôn trên? Có thể, nhưng có ý kiến cho rằng câu chuyện trên được viết vào thế kỷ thứ XII, quá cận với thời điểm Kinh Thánh được dịch từ tiếng Latin sang tiếng Anh trung đại (1382 – 1395), đó là chưa kể trong phiên bản tiếng Latin thời bấy giờ có thể đã có sẵn một lời dạy về chó sói đội lốt cừu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng câu chuyện ngụ ngôn trên không phải là do Nikephoros Basilakis kể vào thế kỷ XII mà là do Aesop (Αἴσωπος theo tiếng Hy Lạp) kể. Không rõ sự tồn tại hay những giai thoại về ông thực hư ra sao, người đời tương truyền rằng Aesop là một nhà kể chuyện ngụ ngôn có xuất thân là một nô lệ xấu xí một cách ấn tượng (strikingly ugly) nhưng đi lên bằng trí thông minh của mình và cuối cùng chẳng những giành được sự tự do mà còn trở thành một nhà cố vấn cho các vị vua và thành bang (city-state). Nếu thực sự Aesop là tác giả của câu chuyện ngụ ngôn trên thì rất có khả năng khái niệm chó sói đội lớp cừu xuất xứ từ đây, vì Aesop sống vào khoảng từ năm 620 đến năm 564 trước Công nguyên (Before Christ, hay viết tắt là BC), trước xa thời kỳ 1382 – 1395 khi Kinh Thánh được dịch sang tiếng Anh trung đại (thực ra là trước cả sự ra đời của Chúa Giê-su (Jesus Christ) và của Tân Ước (New Testament), phần Kinh Thánh có chứa lời dạy Matthew 7:15).

Quá rối rắm! Thật khó mà kết luận đâu là nguồn gốc thực sự của khái niệm chó sói đội lốt cừu phải không? Có quá nhiều biến số ở đây, quá nhiều điều không chắc chắn đan xem vào nhau. Nhưng lâu lâu đọc vài câu chuyện hại não như trường hợp này cũng khá lý thú bạn nhỉ!

Và nếu tinh thần bạn vẫn còn tỉnh táo sau khi dung nạp mớ thông tin bùi nhùi vừa rồi, đây là một mảnh dữ kiện nữa dành cho bạn. Có ý kiến cho rằng việc kết luận câu chuyện ngụ ngôn trên là nguồn gốc của thành ngữ a wolf in sheep’s clothing là không thuyết phục, vì thành ngữ tập trung vào khái niệm chó sói trá hình trong lốt cừu để thực hiện âm mưu lừa đảo những đối tượng xung quanh, trong khi câu chuyện ngụ ngôn dạy cho ta bài học về chú sói làm việc gian xảo và cuối cùng bị trừng phạt. Một bên khuyên nhủ chúng ta đề cao cảnh giác với ‘chó sói’, một bên cảnh báo chúng ta rằng ai làm việc xấu ắt sẽ phải trả giá vì chính hành động xấu xa của mình.

Các biến thể

Bản thân thành ngữ a wolf in sheep’s clothing không có nhiều biến thể chính thức. Một trong những biến thể gần gũi nhất với nó, và cũng là dễ hiểu nhất cho chúng ta, là biến thể sử dụng giới từ sở hữu (preposition of possession) of thay vì danh từ sở hữu (posessive noun) sheep’s, cụ thể là a wolf in the clothing of a sheep hay a wolf in the clothing of sheep. Ví dụ:

  • He’s a wolf in the clothing of a sheep; he cheated on her all the time.
    (Hắn là một con sói trong lốt cừu. Hắn lừa dối cô ta suốt.)
  • My boss is a wolf in the clothing of sheep; he said he liked my work, then went to talk to his boss behind my back to fire me.
    (Sếp tôi là một con sói trong lốt cừu; hắn nói hắn thích sản phẩm của tôi, sau đó đi nói chuyện với sếp của hắn sau lưng tôi để đuổi tôi.)

Đừng quá lo lắng phân vân phải chọn một trong hai phiên bản sheepa sheep; chúng phổ biến như nhau và nhìn chung không thay đổi ý nghĩa là mấy. Sheep nói về cừu nói chung, trong khi a sheep nói về một con cừu nào đó.

Biến thể về ngữ pháp và cách diễn đạt thì ít, nhưng biến thể chế (made-up) về nội dung thì nhiều vô kể. Giới hạn nằm ở sự tưởng tượng của bạn.  Có vài cách để bạn chế thành ngữ a wolf in sheep’s clothing. Đầu tiên, bạn có thể thay wolf bằng bất cứ khái niệm nào nói về điều gì xấu xa. Ví dụ:

  • I’m a devil in sheep’s clothing. But you don’t know that. I will show myself when the time is right.
    (Ta là một ác quỷ đội lốt cừu. Nhưng ngươi không biết điều đó. Ta sẽ hiện hình khi đến thời điểm thích hợp.)
  • They took the charity money that they collected for their own disabled daughter. What they did was evil in sheep’s clothing!
    (Họ lấy tiền từ thiện mà họ quyên góp cho chính con gái tật nghuyền của họ. Điều họ làm là tà ác trong lốt cừu!)
  • She’s such a racist in sheep’s clothing. She says she supports people of her own color, but she’s relly just hating on people whose colors are different than hers.
    (Cô ấy quả thật là một kẻ phân biệt chủng tộc đội lốt cừu. Cô ta nói cô ta ủng hộ những người có cùng màu da với cô, nhưng cô ta thực ra chỉ chỉ trích những người có màu da khác với cô ấy.)

Thay vì wolf, bạn cũng có thể thay thế sheep bằng bất cứ khái niệm nào khác thường được gán với những điều tốt đẹp. Ví dụ:

  • Chris is a wolf in God’s clothing. He thinks we’ll never find out what he’s up to.
    (Chris là một con sói đội lốt Thượng đế. Hắn nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra ý định của hắn.)
  • Laurent is a wolf in lamb’s clothing. She tries to befirend Anna just so that she can take her older brother out on a date. She never even cared to talk to Anna before.
    (Laurent là một ả sói đội lốt cừu con. Ả cố làm bạn với Anna chỉ để ả có thể đưa anh cô ta đi hẹn hò. Ả còn không thèm nói chuey65n với Anna trước đây.)
  • Your meditation teacher is a wolf in monk’s clothing. He makes up all sorts of stories about how he can help improve your health just so that he can take your money.
    (Giáo viên thiền của bạn là một con sói đội lốt thầy tu. Hắn bịa ra đủ mọi thứ chuyện về cách hắn có thể giúp cải tiến sức khỏe của bạn chỉ để hắn có thể lấy tiền bạn.)

Nếu bạn hài lòng về cả hai khái niệm wolfsheep nhưng vẫn muốn biến tấu thành ngữ một chút, sao bạn không thử thay thế clothing bằng một khái niệm nào khác cũng chỉ lớp vỏ bọc được dùng để phủ lên, che đậy việc gì? Ví dụ:

  • The car salesman you talked to is a wolf in sheep’s robes. All he cares about is to sell you the most expensive car, regardless of your needs.
    (Người bán xe hơi mà bạn nói chuyện là một con sói trong lốt áo choàng của cừu. Tất cả những gì anh ấy quan tâm là bán cho bạn chiếc xe mắc tiền nhất, bất kể nhu cầu của bạn.)
  • The princess speaks the nicest of words, but beware, she’s a wolf in sheep’s dress.
    (Nàng công chúa nói những lời đẹp nhất, nhưng hãy coi chừng, cô ta là ả sói trong lớp áo cừu.)
  • That backstabber always plays the wolf in sheep’s gown so well.
    (Tên hay đâm sau lưng đó luôn đóng vai chó sói trong lớp áo choàng của cừu thật tốt.)
  • It may be difficult to realize your loved one is a wolf in sheep’s clothes, let alone accept it.
    (Nhận ra người bạn yêu thương là một con sói trong quần áo của cừu có thể khó khăn, chưa kể là chấp nhận việc đó.)

Đi một bước xa hơn, bạn có thể lật ngược sắc thái của hai chủ thể chính được nhắc đến trong thành ngữ, wolfsheep. Thay vì nói một điều gì đó (hay ai đó) xấu xa cải trang trong lớp vỏ tốt lành, bạn có thể nói ai đó (hay điều gì đó) tốt đẹp giả dạng trong lốt xấu xa. Ví dụ:

  • Peter is a sheep in wolf’s clothing. If you take time to understand his insecurities, you’ll find that he’s very kind.
    (Peter là một con cừu trong lốt chó sói. Nếu bạn dành thời gian để hiểu những bất an của anh ta, bạn sẽ thấy rằng anh ta rất tốt.)

  • Matthew is a saint in devil’s gown. He learned to not let anyone bully him.
    (Matthew là một vị thánh trong lớp áo choàng của ác quỷ. Anh ta đã học cách không để ai ăn hiếp anh ta.)

Cùng với xu hướng chế thành ngữ là sự phát triển về chức năng của nó. Chức năng gốc của thành ngữ là để nói về một điều gì đó xấu xa trong lớp vỏ tốt đẹp, nhưng dần dần con người đã không còn tập trung vào hai khái niệm tốt-xấu đối lập mà thay vào đó chuyển trọng tâm của việc dùng thành ngữ sang khái niệm trá hình, cải trang, bất kể lớp vỏ bọc là tốt hay xấu, bất kể chủ thể cải trang là tốt hay xấu, và bất kể mục đích cải trang là tốt xấu. Ví dụ:

  • That’s an angel in the clothing of a monk. What he does is beyond humanly possible.
    (Đó là một thiên thần trong lốt thầy tu. Những gì ông làm vượt cả khả năng con người.)
  • Her students likened her to a saint in sheep’s clothing.
    (Học trò của cô ví cô như một vị thánh trong lốt cừu.)
  • He looks cruel because he truly is cruel. He’s a predator in a creep’s clothing.
    (Hắn trông ác độc vì hắn thực sự ác độc. Hắn là một kẻ săn mồi trong lớp áo của một tên ghê rợn.)

Và cuối cùng, bạn có bao giờ nghe qua cụm từ a wolf in disguise (chó sói cải trang) trong tiếng Anh? Nếu ai là fan hâm mộ nữ ca sĩ Lady Gaga thì có lẽ đã từng nghe qua lời dưới đây trong bài hát Monster (Quái vật) của cô:

     That boy is bad
     And honestly, he’s a wolf in disguise
     But I can’t stop staring in those evil eyes.
     (Đứa con trai đó tệ
     Và thật tình thì anh ta là một con sói cải trang
     Nhưng tôi không thể ngừng nhìn chằm chằm vào đôi mắt ác độc đó.)

Có người cho rằng a wolf in disguise là một biến thể của thành ngữ a wolf in sheep’s clothing. Nhưng, cũng có người cho rằng câu chuyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ (Little Red Riding Hood) mới thực sự là nguồn gốc của cách diễn đạt này. Đâu mới là lời giải thích đúng đắn? Đó tùy vào cá nhân mỗi người. Bạn bị thuyết phục bởi lời giải thích nào nhiều hơn?

Vậy là hết bài!

Bạn còn điều gì thắc mắc về bài học? Điều gì về tiếng Anh đang làm bạn trằn trọc, ăn không ngon, ngủ không yên? Hay đơn giản là bạn chỉ muốn say “Hi!”? Hãy để lại lời bình luận bên dưới hay gửi email về địa chỉ contact.engbits@gmail.com nhé!


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *